Những vấn đề đặt ra đối với quản lý vĩ mô trong nền kinh tế số (Phần 1)

Những vấn đề đặt ra đối với quản lý vĩ mô trong nền kinh tế số

Những vấn đề đặt ra đối với quản lý vĩ mô trong nền kinh tế số

Rate this post

Last updated on 11/10/2019

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong cấu trúc nền kinh tế số toàn cầu, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới trong điều hành vĩ mô tại các quốc gia, từ vấn đề đo lường, thống kê kinh tế đến quản lý điều hành.Để thích nghi với điều kiện mới, Việt Nam cần có những điều chỉnh kịp thời trong quản lý và điều hành vĩ mô, bắt kịp xu thế và tận dụng cơ hội cho tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên số.

Xu thế phát triển kinh tế số trên thế giới và tại Việt Nam

Số hóa đang nhanh chóng chuyển đổi toàn bộ hoạt động kinh tế, từ sản xuất, tiêu dùng, đầu tư đến hình thành các dòng vốn cố định và dòng vốn xuyên biên giới. Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – OECD (2015), số lượng thiết bị thông minh ứng dụng trong cuộc sống của các hộ gia đình sẽ tăng từ 1 tỷ thiết bị năm 2016 lên 14 tỷ thiết bị vào năm 2022.

Để đo lường tốc độ phát triển kinh tế số ở các quốc gia trên thế giới, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã xây dựng báo cáo thường niên về Công nghệ thông tin toàn cầu (GITR). GITR nhằm đo lường các động lực của cuộc cách mạng công nghệ thông tin trên toàn cầu, sử dụng Chỉ số sẵn sàng mạng (NRI), đánh giá trạng thái sẵn sàng kết nối mạng bằng cách sử dụng 53 chỉ tiêu riêng lẻ. Bộ chỉ số NRI hiện được WEF tính toán và công bố thường niên đối với 139 quốc gia trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tại Báo cáo Công nghệ thông tin toàn cầu năm 2016 của WEF, Top 5 quốc gia có chỉ số NRI cao nhất gồm: Phần Lan, Singapore, Na Uy, Hà Lan và Thụy Sỹ. Ở khu vực châu Á, những quốc gia có chỉ số NRI cao gồm: Singapore (vị trí thứ 2), Nhật Bản (vị trí 13), HongKong (vị trí 14) và Hàn Quốc (vị trí 15).

Theo Báo cáo của WEF, Việt Nam là một trong những quốc gia có bước tiến đáng kể trong xu hướng phát triển kinh tế số với NRI được cải thiện trong giai đoạn 2007 – 2016. Cụ thể, năm 2016, Việt Nam đứng thứ 82/139 quốc gia được xếp hạng, điểm số tăng 1,23% so với năm 2015. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam xếp hạng sau Thái Lan, Indonesia và Phillipines. Yếu tố xếp hạng cao bao gồm chỉ tiêu về khả năng chi trả cho phát triển công nghệ thông tin và truyền thông – ICT (3/139), chỉ tiêu về tác động của ICT tới xã hội (65/129). Một số tiêu chí đang xếp hạng khá thấp bao gồm: Nhóm chỉ về môi trường cho đổi mới sáng tạo (xếp thứ 87/139); Nhóm chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng cho ICT (121/139); Kỹ năng (92/139); Tác động của ICT tới kinh tế (92/139).

Trong khi đó, theo Báo cáo của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ – ASEAN (2017), Đông Nam Á hiện là khu vực có tốc độ tăng trưởng Internet nhanh nhất thế giới, hiện có trên 700 triệu thiết bị di động đang kết nối mạng. Dự báo, đến năm 2020, số lượng người dùng internet tại khu vực này sẽ đạt 480 triệu người so với 260 triệu người hiện nay. Tại Việt Nam, tỷ lệ người sử dụng smartphone hiện nay tăng gấp gần 30 lần so với năm 2010, với khoảng 60 triệu người, chiếm 60% dân số. CSIRO (2018) dự báo, đóng góp của khu vực ICT cho GDP của Việt Nam sẽ đạt 8 – 10% vào năm 2020… Những con số ấn tượng này cho thấy, tiềm năng phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là rất lớn.

Vấn đề đặt ra đối với quản lý vĩ mô trong nền kinh tế số

Xu hướng số hóa nền kinh tế đem lại những tác động tích cực tới năng suất lao động và các lựa chọn tối ưu hóa độ thỏa dụng cho người tiêu dùng. Nghiên cứu thực nghiệm của Cardona (Cardona, Kretschemer and Strobel, 2013) về tác động của cải tiến công nghệ thông tin tới năng suất lao động cho thấy, sản lượng sẽ tăng 0,5% đến 0,6% khi các doanh nghiệp tăng 10% đầu tư cải tiến công nghệ.

Theo báo cáo của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ – ASEAN (2017), Đông Nam Á hiện là khu vực có tốc độ tăng trưởng internet nhanh nhất thế giới và hiện nay có trên 700 triệu thiết bị di động đang được kết nối mạng. Tại Việt Nam, tỷ lệ người sử dụng smartphone hiện nay tăng gấp gần 30 lần so với năm 2010, với khoảng 60 triệu người, chiếm 60% dân số.

Nghiên cứu của OECD (2017) chỉ ra rằng, trong giai đoạn quá độ sang nền kinh tế số có thể sẽ gia tăng sự thiếu hụt về kỹ năng để đáp ứng nhu cầu trên thị trường lao động, dẫn đến giảm sản lượng tiềm năng; đồng thời, sự gia tăng cạnh tranh với các hình thức thương mại điện tử, phương tiện thông tin đại chúng và kết nối internet tốc độ cao giúp cho người tiêu dùng có thể tra cứu, so sánh giá cả và quyết định mua sắm một cách dễ dàng tại bất kỳ đâu trên thế giới, khiến giá cả có nhiều biến động.

Theo OECD (2018), quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số cũng đặt ra một loạt vấn đề trong quản lý vĩ mô và các dịch vụ công. Nhiều chính sách hiện hành không thích ứng với thời đại kỹ thuật số. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số đặt ra những vấn đề trong quản lý vĩ mô, cụ thể:

Vấn đề đo lường tăng trưởng và phúc lợi kinh tế

Nghiên cứu của OECD (2018) đã chỉ ra sự thiếu sót trong đo lường GDP của hệ thống tài khoản thống kê quốc gia SNA hiện tại trong điều kiện phát triển kinh tế số với sự ra đời của một loại hàng hóa vô cùng quan trọng, đó là “dữ liệu”. Trong nền kinh tế số, dữ liệu là trung tâm của hoạt động kinh tế và là sản phẩm quan trọng của các công ty công nghệ thông tin (như: Facebook, Google…). Việc tiếp nhận và chuyển giao dữ liệu là cơ sở thông tin quan trọng để các doanh nghiệp phát triển hoạt động. Tuy nhiên, chuyển giao dữ liệu không phát sinh giao dịch tiền tệ được coi là “miễn phí” và không được ghi chép trong hệ thống tài khoản quốc gia.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF (2017), khoảng cách giữa GDP và phúc lợi sẽ ngày mở rộng trong nền kinh tế số, khiến hạn chế của chỉ tiêu GDP trong đo lường sản lượng ngày càng lớn. Kết quả thực nghiệm của Brynjolffson và cộng sự (2017) dựa trên thí nghiệm hành vi lựa chọn online của người tiêu dùng cũng cho thấy, tổng chi tiêu của hộ gia đình tại Mỹ sẽ tăng 30% nếu được tính cả thặng dư tiêu dùng của những người sử dụng internet. Theo Coyle (2017), sự phát triển của kinh tế số và các sản phẩm số cũng giúp cho người tiêu dùng dễ dàng chuyển hướng sang hoạt động tự cung tự cấp, ví dụ: Tự tìm kiếm thông tin và đi du lịch thay vì sử dụng dịch vụ du lịch; các hoạt động tự làm thay vì mua sản phẩm được bán trên thị trường… hoặc sử dụng các ứng dụng miễn phí (skype, viber call) để tiết kiệm chi tiêu. Điều này dẫn đến thặng dư tiêu dùng tăng mạnh, nhưng nếu sử dụng phương pháp đo lường GDP truyền thống thì giá trị của các hoạt động này không được tính vào GDP do được coi là “miễn phí”. Vì vậy, cần có những quan điểm mới cho vấn đề đo lường phúc lợi kinh tế trong kỷ nguyên số.

Báo cáo của IMF cho rằng, xem xét tác động của số hóa nền kinh tế cần mở rộng phạm vi nghiên cứu tới cả các hoạt động sản xuất phi thị trường và xu hướng thay thế trong tiêu dùng của các hộ gia đình từ sản phẩm dịch vụ truyền thống sang các sản phẩm dịch vụ phi thị trường. Abraham và cộng sự (2017) cũng cho rằng, nền kinh tế số với sự ra đời của khu vực kinh tế chia sẻ đem lại rất nhiều giá trị gia tăng cho cuộc sống nhưng giá trị của các hoạt động này chưa được phản ánh trong hệ thống tài khoản quốc gia và các hộ gia đình có xu hướng né tránh kê khai thu nhập từ hoạt động kinh tế chia sẻ trong quá trình khảo sát.

Theo: baomoi.com

Contact Us